Cymbidium được tìm ra do nhà thực vật học người Thụy Điển tên là Olof Swartz vào năm 1799, tên của nó do từ tiếng Hy Lạp:kumbols có nghĩa là lõm sâu, vì môi hoa của các loài này cong lõm như lòng thuyền.
Giống này có khoảng 40 -60 loài hoang dã ( 120 loài , theo Lecoufle M.) có nguồn gốc châu Á, từ Hymalaya đến tận bờ biển Trung Quốc, Úc, Nhật.
Cymbidium sống bám trên cây (phong lan) hay ở mặt đất ( địa lan) với lá hẹp dài, phần gốc phù mập thành giả hành. Phát hoa ở gần đáy của các giả hành, đứng thẳng hay cong thòng, thường dài và mang nhiều hoa. Hoa to, 3 lá đài và 2 cánh hoa rời và giống nhau. Môi có 3 thùy, trong đó 2 thùy bên dựng đứng, thùy giữa có 2 sọc nổi nhô lên. Trụ khá cao, hai phấn khối nối với mộ vĩ phấn chung nằm trên một gót dĩa to.
Sắc hoa Cymbidium
- Cymbidium erythrostylum
- Cymbidium aloeifolium
- Cymbidium insigne
- cymbidium insigne pring rose
- Với những cây lan thuộc loài Cymbidium sống phù hợp ở những nơi có nhiệt độ thay đổi trong ngày từ 21oC – 38oC và ban đêm phải lạnh
Dù đây là giống không quan trọng ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng lại là giống lan cắt cành chủ lực của vùng cao như Đà Lạt. Ở đấy có 2 loài mọc hoang dã trong rừng thông đã được các nước Tây Âu sử dụng rộng rãi để lai, đó là Hồng lan ( Cymbidium insigne và Cymbidium erythrostylum). Ở vùng thấp như Thành phố Hồ Chí Minh thì có Đoản kiếm (Cymbidium aloifolum) là trồng phổ biến hơn cả.
Sở dĩ các loài lan này không được trồng ở thành phố chúng ta vì chúng bị nhiệt độ khống chế: chúng sống phù hợp ở những nơi mà nhiệt độ thay đổi trong ngày từ 21oC đến 38oC và ban đêm phải lạnh. Ở cây trưởng thành, nhiệt độ ban đêm phải ở 14oC -10oC. Khi cây có hoa thì nhiệt độ phải ở khoảng 14oC. Trong thời kỳ nghỉ, nhiệ độ phải ở khoảng 29,5oC.
Kỹ thuật nuôi trồng hoa lan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét